Cách xử lý bong bóng BĐS - Kinh nghiệm từ Mỹ và Nhật

Liên tục trải qua các cuộc khủng hỏang kinh tế thế giới, thị trường BĐS Việt Nam cũng như thị trường BĐS nhiều quốc gia trên thế giới lâm vào tình trạng “bong bóng”. Cách xử lý tình trạng này của Mỹ và Nhật đều hết sức thông minh và đáng học hỏi.

Mỹ và Nhật Bản không chỉ là hai nền kinh tế hàng đầu thế giới mà thị trường BĐS của họ còn vô cùng sôi động. Những kinh nghiệm cũng như cách thức giải quyết của họ là bài học cho nhiều thị trường BĐS trên thế giới.
Kinh nghiệm từ Nhật Bản
Quy mô và tính nghiêm trọng
Tại Nhật Bản, “bong bóng” BĐS đã từng “vỡ” vào năm 1991. Sau đó, sang năm 1997 – 1998, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, thị trường BĐS lại đi xuống. Xu hướng giảm giá nhà đất trên thị trường ngày càng lan rộng. Giá nhà đất và lượng giao dịch giảm cùng với các khoản nợ ngân hàng đã khiến hoạt động kinh doanh của các công ty BĐS gặp nhiều khó khăn, nhiều công ty phải tiến hành tái cấu trúc và thậm chí phải tuyên bố phá sản.
Nguyên nhân
Một là, sự sụt giảm của giá chứng khoán. Kéo theo đó là giá BĐS cũng giảm rất sâu. Cụ thể, giá chứng khoán Nikkei 225 đạt đỉnh 38.915 điểm vào cuối năm 1989, sau đógiảm mạnh xuống còn 14.309 điểm vào tháng 8/1992, giảm hơn 60% so với thời điểm cao nhất (Okina/Shirakawa 2001, tr.5). Thị trường chứng khoán và thị trường BĐS có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Thị trường chứng khoán tăng giá, một phần lãi đáng kể sẽ được các nhà buôn chứng khoán chuyển thành tiền mặt rồi đầu tư vào BĐS. Ngược lại, khi giá chứng khoán giảm, các nhà buôn chứng khoán sẽ thua lỗ, khoản vốn đầu tư sẽ giảm. Khi đó, giá cổ phiếu BĐS cũng giảm theo và giá đất sẽ trượt dốc.
Hai là, chính sách cho vay lỏng lẻo của ngân hàng. Sau khi Chính phủ thực hiện cải cách khu vực ngân hàng bằng cách dỡ bỏ cơ chế quản lý lãi suất và những rào cản cho vay phi ngân hàng, các ngân hàng bắt đầu mởrộng các khoản cho vay mạo hiểm như cho vay tiêu dùng, cho các doanh nghiệp (DN) xây dựng, BĐS vay. Khi các quy tắc điều hành và giám sát chưa kịp thay đổi với điều kiện mới thì các khoản cho vay lỏng lẻo của ngân hàng đã biến thành những khoản nợ xấu gây hậu quả nghiêm trọng.
Giải pháp
Hàng loạt DN BĐS ở Nhật đã rơi vào tình trạng phá sản. Để xử lý các công ty BĐS ở Nhật Bản bị “đắp chiếu”, Chính phủ nước này đã đưa ra chính sách hỗ trợ, nhằm kích thích tạo thanh khoản cho thị trường cũng như giúp các DN BĐS thoát khỏi khủng hoảng. Giữa năm 1990, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) đã đưa ra mức lãi suất ngân hàng ở mức dưới 1% để tạo điều kiện cho người dân vay tiền và từ đó khơi thông thị trường nhà đất. Năm 1995, Bộ Tài chính Nhật Bản đã ban hành sắc lệnh tăng thuế tiêu dùng từ 3% lên 5% và giảm 20% thuế thu nhập cá nhân nhằm kích thích nền kinh tế. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản còn yêu cầu công ty quản lý nợ mua lại các khoản nợ xấu liên quan đến BĐS.
0_2
Theo số liệu của Cơ quan Dịch vụ tài chính, giai đoạn 2001 – 2006, Chính phủ đã đánh giá chặt chẽ tài sản của các ngân hàng lớn nhằm giảm đáng kể nợ xấu (từ tổng dư nợ 8,7% năm 2002, giảm xuống còn 1,4% năm 2008). Do đó, cạnh tranh cho vay cũng đã tăng lên, đặc biệt là trong khu vực đô thị. Kết quả là chi phí cho vay nhà ở đã giảm, tạo tính thanh khoản cho thị trường nhà đất.
Tuy nhiên, việc Chính phủ Nhật Bản “cứu” thị trường BĐS gặp phải một số tồn tại, hạn chế. Đó là Chính phủ vẫn chưa tháo gỡ được khó khăn cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Đặc biệt, từ năm 1998 đến nay, Nhật Bản đã rơi vào tình trạng giảm phát, cùng với đó là vấn đề nợ công khiến công cuộc phục hồi kinh tế càng trở nên khó khăn hơn.
Giải pháp của nước Mỹ
Quy mô và tính nghiêm trọng
Giá nhà ở Mỹ đã tăng liên tục trong thời gian từ 2000 – 2005. Chỉ trong vòng 5 năm, lượng bán những căn nhà mới xây đã tăng 41,14% (từ 907.907 căn/tháng lên tới 1.283.000 căn/tháng). Tuy nhiên, từ quý IV/2005, thị trường đã có dấu hiệu chững lại. Năm 2006, trong khi giá nhà, đất tại nhiều nước tăng cao thì thị trường BĐS ở Mỹ lại khá trầm lắng. Số nhà mới xây trong tháng 2/2006 giảm tới 4% so với tháng 1, từ 882.000 căn, xuống còn 848.000 căn, đây là mức giảm mạnh nhất trong 6 năm.
Năm 2007, giá nhà và số lượng giao dịch trên thị trường tiếp tục giảm, từ 1.283.000 căn, xuống còn 776.000 căn. Theo Tổ chức Các nhà Môi giới BĐS Bắc Mỹ, số lượng giao dịch các căn nhà đang sử dụng là 4.910.000 căn. Từ tháng 8/2007 đến hết tháng 8/2008, trên 770.000 căn nhà ở Mỹ bị ngân hàng siết nợ do các gia đình không đủ khả năng trả nợ tiền vay mua nhà.
Nguyên nhân
Cũng tương tự như thị trường BĐS ở Nhật Bản những năm 1990, “bong bóng” BĐS ở Mỹ bị “vỡ” do giá BĐS giảm đột ngột, làm cho những người nắm giữ, đầu cơ BĐS bị giảm lợi nhuận và phải đối mặt với các khoản nợ ngân hàng. Không thể bán được sản phẩm BĐS đang nắm giữ cùng với các khoản nợ và lãi vay ngân hàng chưa thanh toán được, các nhà đầu tư phải tuyên bố phá sản.
Cho vay thế chấp nhà đất dưới chuẩn của hệ thống ngân hàng. Tức là hình thức thế chấp nhà đất trở thành một loại hình kinh doanh đầy lợi nhuận không chỉ với ngân hàng cho vay mà còn với cả dân đầu cơ địa ốc ở Mỹ. Một điều đặc biệt là hầu hết các ngân hàng, tổ chức tín dụng ở Mỹ cho vay dưới hình thức này đều chấp nhận đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Như vậy, nguy cơ rủi ro là rất cao do đối tượng của nó là nhà đất – vốn thường xuyên rơi vào chu kỳ đóng băng.
Các nhà đầu tư đã vay tiền từ các ngân hàng và đầu tư ồ ạt vào nhà đất với hy vọng sau đó bán đi kiếm lời. Cụ thể, giai đoạn 2004 – 2006, cho vay thế chấp dưới chuẩn chiếm khoảng 21% tổng các khoản vay thế chấp, tăng so với mức 9% giai đoạn 1996 – 2004, trong đó chỉ tính riêng năm 2006 tổng giá trị các khoản vay thế chấp dưới chuẩn lên đến 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay mua nhà của Mỹ. Trong khoảng thời gian này, việc mua nhà ở Mỹ khá dễ dàng. Người mua nhà chỉ cần trả ngay khoảng 20% giá trị căn nhà (Demyanuk/ Hemert 2008, tr.6), còn lại sẽ trả góp trong vòng 20 năm hoặc lâu hơn.
Giải pháp
Để xử lý khủng hoảng BĐS, Chính phủ Mỹ đã có những chính sách hỗ trợ như tung ra các gói kích thích kinh tế và chính sách tiền tệ.
Thứ nhất, gói kích thích kinh tế. Năm 2008, Chính phủ Mỹ đã phân bổ hơn 900 tỷ USD cho các khoản vay đặc biệt và giải cứu liên quan đến “bong bóng” nhà ở Mỹ. Trong đó, hơn phân nửa hỗ trợ cho hai công ty thế chấp của Chính phủ là Fannie Mae và Freddie Mac và Cơ quan quản lý Nhà Liên bang. Cũng trong năm 2008, Chương trình Giải cứu Tài sản xấu đã ra đời. Kinh phí của chương trình được cập nhật đến ngày 12/10/2012 như sau:
1_75
Cụ thể hơn, gói hỗ trợ của Chính phủ đề nghị mức vay mới với lãi suất chỉ 4%, nới thời hạn vay lên 40 năm và ân hạn thêm cho các khoản vay quá hạn chưa trả được. Đây là giải pháp nhằm tạo cầu cho thị trường nhà đất. Những người vay được phân loại làm 2 hạng: có tiền sử tín dụng tốt và xấu. Với những người có tiền sử tín dụng tốt, quy định yêu cầu họ phải đang ở trong căn nhà mà họ định tái cấu trúc khoản vay, có khoản nợ ít hơn 729.750 USD, phải chứng minh được là mình đang gặp khó khăn tài chính và chương trình có thời hạn đăng ký. Với những người có “tiền sử” tín dụng rủi ro, các điều kiện cũng tương tự nhưng kèm theo quy định là sau 5 năm, lãi suất với các khoản vay mới sẽ tăng nhưng không cao hơn lãi suất thị trường ở thời điểm đó. Những nhà đầu tư BĐS muốn mua căn nhà thứ hai và những ai có khoản nợ trên 729.750 USD đều không được tham gia chương trình này.
Thứ hai, chính sách nới lỏng tiền tệ. Nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã thực thi chính sách lãi suất gần bằng 0%. Mục tiêu của FED hướng tới là cam kết giữ lãi suất ngắn hạn ở mức gần 0% kéo dài đến năm 2015 để kích thích cho vay, cứu các DN và nền kinh tế. Tiếp đó, để chấn hưng kinh tế, FED tiếp tục can thiệp vào thị trường tài chính tiền tệ bằng 3 gói nới lỏng định lượng (QE) lần lượt vào các năm 2008, 2010, 2012. Đây là các gói cứu trợ mà FED đã đưa ra để giải cứu thị trường tài chính của Mỹ trong bối cảnh thất nghiệp tăng cao, tăng trưởng GDP đạt thấp.
Như vậy, sau hàng loạt những biện pháp của Chính phủ và của FED nhằm xử lý khủng hoảng BĐS, thị trường BĐS Mỹ đã có dấu hiệu phục hồi. 2013 là năm chứng kiến thị trường nhà đất Mỹ có dấu hiệu phục hồi với tốc độ mạnh mẽ hơn. Chỉ số tổng hợp về giá nhà của S&P/Case-Shiller công bố ngày 25/6/2013 cho thấy giá nhà ở 20 thành phố của Mỹ đã tăng hơn 2,5% trong tháng 4 so với tháng 3 và là mức tăng hàng tháng cao nhất kể từ năm 2000. Giá nhà ở tất cả các thành phố, trừ Detroit, đã tăng lên trong tháng thứ tư liên tiếp, trong đó 12 thành phố có mức tăng tới hai con số, nhất là những nơi như San Francisco, Las Vegas, Phoenix và Atlanta, với các mức tăng trên 20%…
Bài học cho Việt Nam
Bài học đáng để Việt Nam học hỏi là vấn đề củng cố niềm tin của chủ đầu tư, cơ quan nhà nước đối với người tiêu dùng. Trong giai đoạn phát triển, nguyên nhân khiến cho “bong bóng” càng phình to hơn chính là Nhật Bản quá tự tin vào sự hưng thịnh của nền kinh tế và họ luôn tin rằng giá đất sẽ không bao giờ giảm.
Tuy nhiên, khi “bong bóng vỡ”, sau một thời gian dài mà thị trường vẫn không thể hồi phục trở lại, người dân đã mất niềm tin vào thị trường, vào nền kinh tế. Chính vì thế, BOJ đã phải đưa ra chính sách lãi suất thấp với mong muốn giúp các các DN dễ dàng tiếp cận nguồn vốn để mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên, lãi suất thấp đã khiến người dân Nhật Bản chuộng nắm giữ tiền mặt nhiều hơn là đầu tư vào nhà đất. Hệ quả là ngân hàng thiếu tiền mặt và thị trường nhà đất vẫn không thể cải thiện.
Trường hợp của Mỹ cho thấy, Chính phủ cần can thiệp sớm khi thị trường xuất hiện những dấu hiệu bất ổn, càng để lâu, tổn thất sẽ càng nghiêm trọng và chi phí để xử lý sẽ càng lớn.
Bài học thứ hai Việt Nam nên học hỏi từ nước Mỹ khi đưa ra các giải pháp xử lý khủng hoảng BĐS là đi từ nguyên nhân của vấn đề BĐS để tìm ra giải pháp hiệu quả. Nguyên nhân của khủng hoảng BĐS ở Mỹ bắt nguồn từ việc các ngân hàng cho vay dưới chuẩn. Tức là cho cả những người có tiền sử tín dụng xấu, thậm chí là những người không có việc làm vay. Chính vì vậy, Mỹ đã đưa ra các giải pháp kích thích kinh tế nhằm tạo ra việc làm, tạo ra thu nhập, giúp người dân có khả năng trả nợ và tăng mức doanh số bán nhà, giảm lượng hàng tồn kho, từ đó, khơi thông thị trường BĐS.
Một bài học nữa được rút ra từ công cuộc xử lý khủng hoảng BĐS ở Mỹ đó là công khai minh bạch các gói cứu trợ của Chính phủ. Các dự án trong gói kích thích kinh tế ở Mỹ đều rất cụ thể và mọi người dân có thể theo dõi tiền ngân sách đã được giải ngân ra sao qua nhiều kênh, mà trước hết là trang mạng công khai của chính quyền http://www.recovery.gov, trong đó liệt kê chi tiết tiền chi cho các dự án ở từng bang và cả ở quy mô liên bang. Việc làm này giúp tạo niềm tin của người dân vào Chính phủ, và điều này là vô cùng quan trọng, kích thích nền kinh tế.
Có thể coi kinh nghiệm giải quyết tình trạng “bong bóng” BĐS của hai nền kinh tế hàng đầu thế giới Mỹ và Nhật Bản là bài học lớn đối với nhiều thị trường BĐS trên thế giới, và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ.
Theo TCTC

Đơn vị qui đổi tính số lượng, qui đổi trọng lượng


Đơn vị qui đổi tính số lượng, qui đổi trọng lượng
Đơn vị qui đổi tính số lượng, qui đổi trọng lượng
Ở đây cần lưu ý về hệ thống đo lường, vì bên cạnh hệ mét, nhiều nước còn sử dụng hệ thống đo lường khác. Ví dụ: Hệ thống đo lường của Anh, Mỹ . . . do đó để tránh hiểu lầm nên thống nhất dùng hệ mét hoặc qui định lượng tương đương của chúng tính bằng mét.
Ở đây cần lưu ý về hệ thống đo lường, vì bên cạnh hệ mét, nhiều nước còn sử dụng hệ thống đo lường khác. Ví dụ: Hệ thống đo lường của Anh, Mỹ . . .
do đó để tránh hiểu lầm nên thống nhất dùng hệ mét hoặc qui định lượng tương đương của chúng tính bằng mét.

Đơn vị qui đổi tính số lượng, qui đổi trọng lượng
 
Một số đơn vị đo lường thông dụng:

1 tấn (T)                        = 1 Mectric Ton (MT)      = 1.000 kg

1 tấn                             = 2.204,6 pound (Lb)

1 pound (Lb)                   = 0,454 kg

1 gallon (dầu mỏ) Anh       = 4,546 lít

1 gallon (dầu mỏ) Mỹ        = 3,785 lít

1 thùng (barrel) dầu mỏ     = 159 lít

1 thùng (Bushel) ngũ cốc   = 36 lít

1 ounce = lạng                 = 28,35 gram

1 troy ounce                    = 31,1 gram

1 Inch                             = 2,54 cm         (1m = 39,37 inch)

1 foot = 12 inches             = 0,3048 m:       (1m = 3,281 ft.)

1 mile                              = 1,609 km.

1 yard                             = 0,9144m ;       (1m = 1,0936 yard


                                                      (Tổng hợp: Lão Trịnh)

FPT cổ phiếu tiểm năng lớn nhất sau khi SCIC thoái vốn

Trong danh sách những cổ phiếu SCIC chuẩn bị thoái vốn gồm VNM, BMI, VNR, NTP, BMP, HGM, SGC, FPT, FPT Telecom, và Hạ tầng và BĐS VN, thì đánh giá FPT là cổ phiếu đáng để đầu tư nhất:

1.      Về giá:
-          Xét về giá thì VNM, VNR, NTP, FPT là những cổ phiếu niêm yết đang có giá trị ở mức hấp dẫn, và có thể được đánh giá đang ở mức thấp đối với nhà đầu tư tổ chức. Tuy nhiên, vốn hóa hiện tại thì VNM rất khó để lựa chọn đối tác trong nước có thể mua được nếu nhà nước không thực hiện nới room cho VNM.
-          VNR, NTP tuy giá đang ở mức thấp tuy nhiên để một tổ chức đứng ra thu gom thì tốc độ giá biến động cũng khá cao, chẳng khác gì BMP tăng từ 65-120k với thanh khoản khá thấp trong giai đoạn đầu.
-          FPT thì khác, mức giá có thể đánh giá giao động thấp hơn một chút với giá trị thực cho một cổ phiếu tăng trường, nhưng thanh khoản cũng ở mức khá tốt để tổ chức thu gom, và vốn hóa lại không quá lớn đối với phần SCIC thoái vốn.
2.      Về tiềm năng khi mua lại FTC
-          FPT Telecom (FTC) được SCIC nắm cổ phần chi phối và đủ sức quyết định mọi chính sách, nhưng nếu SCIC thoái vốn thì chẳng ai khác ngoài FPT được quyền mua phần này và sẽ đưa FTC vè một nhà.
-          Mảng FPT Telecom được đánh giá mạnh chẳng kém và có thể còn hơn cả mảng core chính là phần mềm hiện có của FPT, và với khả năng sau khi mua FPT còn có khả năng lớn đưa FTC phát triển mạnh hơn, khi không còn sự can thiệp của SCIC.
-          Lợi nhuận trước thuế (LNTT) năm 2014 của FPT có đến 34% đến từ mảng viễn thông, 24% từ mảng sản xuất phân phối phần mềm, 21% từ phát triển phần mềm. Có thể thấy mức độ quan trọng của FTC trong chiến lược phát triển của FPT và tốc độ tăng trường của ngành này ngày càng cao với một nước đang phát triển như VN.
3.      Lợi thế từ việc thoái vốn của SCIC
-          SCIC thoái 6% khỏi FPT và thoái hết khỏi FPT Telecom điều này được đánh giá là lợi kép cho NDT lớn:
+ FPT Telecom sẽ được FPT nắm (ít nhất là hơn 51%-65%) đủ để chi phối mọi hoạt động của FTC
+ Phần đóng góp của FPT Telecom ngày càng tăng cho FPT
+ SCIC thoái thêm 6% FPT cũng gia tăng thanh khoản và giúp nhà đầu tư lớn có quyền chủ động hơn trong giao địch mua bán.
-          Không còn sự can thiệp trực tiếp từ SCIC (hay nói cách khác không có sự can thiệp trực tiếp của nhà nước), thì FPT sẽ trở thành một công ty hoạt động năng động hơn, đúng với bản chất vốn có có của FPT. Tuy nhiên, vẫn được sự hỗ trợ ngầm từ nhà nước vì công nghệ thông tin và dược phẩm và là một trong những ngành mũi nhọn nhà nước khó thể bỏ qua nếu muốn phát triển quốc gia bền vững.
4.      Phân tích kỹ thuật đang chuẩn
-          Không thể bỏ qua phương thức giao dịch của FPT đã được nhà tạo lập lên kế hoạch rất chi tiết, và những thông tin đó đã được phản ánh vào giá với một đồ thị tuyệt vời.
-          Chart đồ thị theo ngày có thể bị sai lệch đôi chút do có sự hưng phấn quá độ của NĐT trong ngắn hạn, nhưng trung và dài hạn thì mọi thứ sẽ đi theo đúng hướng và được thể hiện trong chart tuần và chart tháng. 
-      Theo đồ thị giao dịch của FPT hiện tại chúng tôi xác định FPT đang giao dịch theo mẫu hình "Cup and Handle" chuẩn (đỉnh 2 khoảng 0.95 đỉnh 1, breakout không cao bằng đỉnh 1 và đỉnh 2), với phiên 14/10/2015 là phiên breakout và t+5 chính là hiện tượng test lại.

Theo chart ngày có thể thấy phiên giao dịch 14/10/2015 tạo một gap từ 46.4-46.7 (tính từ điểm cao gần nhất), do đó tại thời điểm T+ với những NĐT mua tại phiên 14/10 sẽ khó thu được lợi nhuận nếu mua đuổi giá cao, tuy nhiên sau khi FPT giao dịch lâp gap mấy phiên tiếp theo thì chắc chắn FPT sẽ tăng mạnh theo mẫu hình.


Dự giao động ngắn hạn làm nên sự sai phạm trong biểu đồ daily nhưng trong biểu đồ weekly thì sai phạm sẽ được xóa để hiện thị đúng theo bản chất thực sự của nó, lầ mẫu hình "Cốc và Tay Cầm" huyền thoại.

Kết luận:
SCIC thoái vốn là cơ hội để NĐT cá nhân và tổ chức có thể mua được những cổ phiếu tốt với giá hấp dẫn, tuy nhiên  tôi đánh giá ở thời điểm hiện tại VNM, FPT, VNR, NTP là những cổ phiếu đáng để đầu tư, với những tiêu chí về thanh khoản, vốn hóa, và cơ hội tăng trường.
Trong đó, FPT là cổ phiếu được hưởng lợi nhiều nhất trong lần cơ cấu này, vì thanh khoản tương đối tốt, giá hợp lý, tăng trưởng đều, và cơ hội tăng trưởng sau khi mua lại FPT Telecom là rất lớn. Mục tiêu ngắn hạn >55k, dài hạn phụ thuộc tiếp vào những chính sách phát triển từ FPT.


Dịch vụ Thiết kế websiteDịch vụ seo CIP giúp cho thương hiệu của bạn tiếp cận thị trường online.